Thứ Năm, 30 tháng 11, 2017

CÀN CÓ THÁI ĐỘ CẨN TRỌNG VÀ KHOA HỌC TRONG CÁC ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI CHỮ QUỐC NGỮ...

PHẠM KHANG
CÀN CÓ THÁI ĐỘ CẨN TRỌNG VÀ KHOA HỌC TRONG CÁC ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI CHỮ QUỐC NGỮ...
Ảnh động
Cần nhận rõ rằng, chữ viết tiếng Việt dùng bộ chữ cái La-tinh (Latin), là bộ chữ nằm trong tốp phổ biến nhất thế giới xét về địa bàn, số người và số quốc gia sử dụng. Ở Đông Nam Á, ngoài Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines, Timor Leste dùng bộ chữ cái La-tinh. .
Kể từ khi ra đời vào đầu thế kỷ XVII, chữ quốc ngữ, sử dụng bộ chữ cái La-tinh có thêm các dấu phụ, do các giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha và Pháp tạo ra đã định hình như ngày nay.
Nó được viết hầu như giống với cách viết trong Tự điển Việt - La tinh (1838), do giám mục Jean-Louis Taberd biên soạn lại, dựa theo bản thảo năm 1773 của Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc).
Dĩ nhiên, do mục đích ban đầu để cho người phương Tây ghi lại lời nói tiếng Việt và dễ học tiếng Việt, nó có những bất hợp lý tồn tại cho đến ngày nay, dù đã được chỉnh sửa nhiều lần.
Trước hết phải nhớ rằng chữ Quốc ngữ ra đời là nhằm mục đích để giúp các giáo sĩ ghi chép tiếng nói để truyền đạo. Sau khi xâm lược nước ta, chính quyền Pháp đã nhận thấy chữ Quốc ngữ dễ học hơn chữ Hán và chữ Nôm Việt (các hệ chữ có trước khi có chữ Quốc ngữ ở Việt Nam) rất nhiều, có thể giúp chính quyền thực dân và dân bản xứ dễ giao tiếp với nhau hơn, nên khuyến khích dạy và học chữ này.
Năm 1878, có một nghị định về việc chuẩn bị điều kiện để dùng chữ này làm chữ viết chính thức ghi tiếng Việt. Năm 1910, có Thông tri của Thống sứ Bắc Kỳ về việc dùng chữ Quốc ngữ trong các công văn, giấy tờ hành chính và sổ sinh tử giá thú. Buổi đầu các nhà nho Việt Nam rất phản đối chữ Quốc ngữ, nhưng rồi sau chính họ nhận thức được vai trò của chữ Quốc ngữ trong nâng cao dân trí và canh tân đất nước, bắt đầu hô hào học và phổ biến chữ Quốc ngữ trong phong trào Đông kinh nghĩa thục.
Sau Cách mạng tháng Tám, chữ Quốc ngữ đã trở thành chữ viết chính thức duy nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
GS.TS Nguyễn Văn Lợi, nhà nghiên cứu có uy tín về ngôn ngữ học cho rằng: Đề xuất về thay đổi chữ Quốc ngữ của PGS Bùi Hiền không dựa trên những cơ sở khoa học. Cũng theo ông thì căn nguyên thiếu cơ sở khoa học của PGS. Bùi Hiền thể hiện ở các điểm chính sau đây:
Thứ nhất, lí do để ông đòi cải tiến chữ Quốc ngữ là: 1- Một số trường hợp chữ QN không đảm bảo nguyên tắc “một âm vị ghi bằng 1 kí tự và ngược lại”. Đây là lí do để ông đề nghị bỏ cách ghi phân biệt C, K, QU; phân biệt NG/NGH, G/GH.. Thật ra từ lâu, nhiều người đã nhận ra sự bất hợp lí trên của chữ Quốc ngữ (làm khó cho trẻ em học viết tiếng Việt). Trong hội nghị Cải tiến chữ Quốc ngữ(năm 1960) ở Miền Bắc, nhiều người đề nghị cải tiến các trường hợp trên. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng, trước khi đi đến cải tiến các trường hợp, này cần tính đến mặt tâm lí, lịch sử, văn hóa.
Thứ hai, ông Bùi Hiền đưa ra đòi thống nhất cách ghi X/S, CH/TR, D/R/GI. Theo ông, trong cách phát âm tiếng Hà Nội, không có sự phân biệt trên. Tiếng Việt gồm các thổ ngữ, phương ngữ khác nhau. Mối thổ ngữ, phương ngữ có cách phát âm riêng. Hiện nay, ở nước ta, trong nhà trường, trên truyền thông, trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, chưa có quy định chuẩn về phát âm (chính âm) mà chỉ có quy định chuẩn về cách viết (chính tả). (Riêng trường hợp nói lẫn lộn l/n bị xã hội “đánh dấu”, coi là “không chuẩn mực). Một trong những ưu điểm của chữ Quốc ngữ là, ngày từ đầu, cách đây 4 thế kỉ, chữ viết này đã “tổng hợp được những đặc điểm của các phương ngữ lớn (ghi được 6 thanh của tiếng Bắc Bộ, đồng thời phản ánh được sự phong phú, đa dạng của phương về phụ âm của phương ngữ Bắc Trung Bộ, Nam Bộ). Hiện nay, ngoài tiếng Hà Nội, nhiều thổ ngữ, phương ngữ khác vẫn giữ lại cách phát âm phân biệt các trường hợp trên. Cần có một vài giải thích thêm về trường hợp phụ âm d trong chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ sử dụng 2 con chữ D và Đ để ghi 2 phụ âm khác nhau. Ở thế kỉ 17, phụ âm D có cách phát âm khá gần với cách phát âm phụ âmD trong các tiếng châu Âu. Do vậy, các cố đạo dùng con chữ D (tương tự ngôn ngữ châu Âu) để ghi phụ âm này. Còn con chữ Đ để khi ghi phụ âm có cách phát âm xa lạ đối với người châu Âu. Họ sáng tạo cách ghi Đ. Ngày nay, trong tiếng Bắc Bộ, phụ âm D đã chuyên sang cách phát âm là Z. Tuy nhiên ở thổ ngữ Phục Lễ (huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng), thổ ngữ Cương Gián (huyện Nghi Xuân, xã Đức An, Đức Thọ, Hà Tĩnh), thổ ngữ Bắc Trạch (Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình) vẫn còn giữ cách phát âm như thế kỉ 17 của D. Nếu chữ Dthay bằng Z như đề xuất của PGS Bùi Hiền, thì không phản ánh được một hiện tượng lịch sử của tiếng Việt. (Nói thêm, người Anh, Pháp rất quan tâm tính lịch sử trong chữ viết nên cách phát âm đã thay đổi, nhưng chữ viết vẫn giữ lại). Hơn nữa, cách viết D bằng Z không phù hợp với các thổ ngữ còn phân biệt 2 phụ âm này. Cũng như vậy, cách viết không phân biệt S/X, CH / TR, R/D/GI là làm nghèo đi tính đa dạng về mặt thổ ngữ, phương ngữ tiếng Việt vốn là một ưu thế của chữ Quốc ngữ. Tất nhiên, đề xuất viết không phân biệt X /S, CH/TR, D/R/GI, chắc chắn là điều khó chấp nhận của đối với người nói các thổ ngữ, phương ngữ không phải Hà Nội.
Thứ ba ông Bùi Hiền đưa ra liên quan đến các kí tự gồm nhiều con chữ, theo ông cần cải tiến để viết cho đơn giản, tiết kiệm thời gian (thao tác viết, đánh máy), không gian (con chữ chiếm giấy). Quả là chữ Quốc ngữ cũng như nhiều chữ viết trên thế giới, có nhiều kí tự gồm 2, 3 con chữ. Viết (đánh máy) những kí tự này mất nhiều thao tác (thời gian) và chiếm nhiều chỗ (không gian). Chữ viết là kí hiệu (được tiếp thu bằng thị giác) ghi các âm, thanh (phụ âm, nguyên âm, thanh điệu vốn được tiếp thu bằng tai). Là kí hiệu, mỗi kí tự do con người quy ước.
Tuy nhiên, sự quy ước không thể tùy tiện. Hệ thống âm vị mang tính hệ thống chặt chẽ. Từ trong bụng mẹ, đứa trẻ đã học nghe các âm thanh của tiếng mẹ đẻ. Khi ra đời, kĩ năng nghe-nói dần hoàn thiện. Về mặt tâm lí ngôn ngữ, một cách vô thức, trẻ em học nghe-nói thông qua tính hệ thống của hệ thống âm thanh. Chữ viết để phản ánh hệ thông âm thanh cũng phải mang tính hệ thống. Có như vậy, người học (dù là trẻ em hay người lớn) mới dễ dàng tiếp thu, ghi nhớ cách viết cách đọc từng âm vị, âm tiết, từ ngữ. Do vậy, việc lụa chọn các kí tự, quy định về cách viết (chính tả) không thể tùy tiện.
Tiêu chuẩn này được đảm bảo khá tốt ở chữ Quốc ngữ. Có thể nói, những người làm chữ Quốc ngữ có những sáng tạo trong việc dùng các con chữ và dấu phụ để ghi các âm (phụ âm, nguyên âm), đặc biệt trong việc dùng các dấu thanh (dấu giọng) để ghi thanh điệu. Việc lựa chọn kí tự này hay khác đều có lí do, mang tính hệ thống, tạo thuận lợi cho việc học, tiếp nhận.
Những đề xuất của PGS Bùi Hiền như dùng Q thay cho NG, W thay cho TH phá vỡ tính hệ thống của hệ thống kí tự chữ Quốc ngữ. Đúng như PGS Hoàng Dũng, trong các chữ viết dựa trên hệ chữ La Tinh, không có chữ viết nào có cách dùng kí tự tùy tiện như vậy.
Việc thay kí tự NH băng N’ cũng thiếu cơ sở. Về phát âm, NH là phụ âm vang, mũi, cùng nhóm với các phụ âm M, N,NG. Thay NH bằng N’, cũng như thay NG bằng Q phá vỡ tính hệ thống, người học khó tiếp thu (học đọc/viết). Hơn nữa, trong chữ Quốc ngữ dấu phụ (tương tự dấu phẩy treo trong N’ chỉ dùng để ghi thanh điệu và một số nguyên âm, còn NH là phụ âm. Về mặt hình chữ (graphic), N’ rất khó tiếp nhận bằng thị giác, dễ lẫn sang các kí hiệu phụ ghi thanh điệu. Ngoài ra, việc dùng N’ thay NH không giúp tiết kiệm. Khi viết N’ vẫn phải nhấc bút 2 lần, khi đánh máy vẫn phải gõ 2 nhịp (Đấy là chưa kể, viết 2 con chữ liền nhau, nhanh hơn viết với dấu phụ N’). NH chiếm không gian lớn hơn theo chiều ngang, còn N’ chiếm không gian lớn hơn theo chiều cao. Với kí tự N’, nhìn một văn bản (viết, in) sẽ rối, thiếu thẩm mĩ.
Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia (khẳng định trong Hiến pháp 2013), ngôn ngữ chính thức, tiếng phổ thông của mọi công dân ở các vùng miền thuộc 54 tộc người ở nước ta. Làm cho tiếng Việt luôn giữ được bản sắc của mình, đồng thời phát triển hòa nhập trong thế giới thời đại công nghệ 4.0 là trách nhiệm và quyền lợi của mọi người. Mỗi cá nhân, tập thể có thể đề xuất những cải tiến chữ Quốc ngữ. Tất nhiên các đề xuất sẽ được xã hội chấp nhận, nếu đề xuất đó có cơ sở khoa học và thực tiễn.

PK...


Ảnh

Ảnh động

KHÚC LÃNG DU 3 CÂU…

PHẠM KHANG
KHÚC LÃNG DU 3 CÂU…
Ảnh động
1…
Áo may đứt chỉ
Buồn không dâng lòng
Ơ kìa cánh chim dạt trôi…
2…
Nụ hôn
Ngủ mê
Bế bồng giấc mơ quỷ sứ…
3…
Thánh thần làm bằng nhựa
Lá bạc màu
Đêm dài ra thành con rắn trăm khoang…
4…
Muộn rồi…à ơi
Người quên hay nhớ
Cỏ vô tình… cỏ hóa thành hoa…
5…
Tu viện
Lời răn theo gió mây
Những hạt muối theo về biển mặn…
PK…


Ảnh
Ảnh động


Thứ Tư, 29 tháng 11, 2017

MẶT TÌNH MỸ SƠN

PHẠM KHANG
MẶT TÌNH MỸ SƠN
 Ảnh động
phiêu bồng hồn đá âm dương
huơ tay lên cái phấn hương của đời
tình xưa lưu vết sáng ngời
ta nghe đá khóc đá cười gọi tên
âm dương nứt đá mà lên
yêu cho bạt núi cho quên đường về
muôn năm ôm chặt lời thề 
minh vương bạo chúa ngọc ngà ghẹo chơi...!
Poto PK của Nguyễn Duy Chinh...
PK...

Ảnh

Thứ Ba, 28 tháng 11, 2017

CHO MÙA SUNG SƯỚNG...

PHẠM KHANG
CHO MÙA SUNG SƯỚNG...
 
ta lạc hồn em mùa đám cưới
những tình xinh dệt giấc mơ xinh
em xiêm áo nô ngực đầy môi mọng
có thương người trôi dạt bến đời không...!
PK...
Ảnh
Ảnh động

…EM VÂNG LỜI…!

PHẠM KHANG
…EM VÂNG LỜI…!
 
Ngọn đèn thức
anh
và em
cũng thức
anh tìm em
nơi ánh mắt dịu hiền
em hồn hậu
với với phút giây hạnh phúc
anh biết
tình yêu
sống mãi
sẽ không tàn
Thời gian trôi đọng lại ánh sao trời
ngày vất vả đời thường bao cực nhọc
người đời ai lãng quên
người đời ai bội bạc
em trung thành với hạnh phúc buồn đau
Ngọn đèn thức
Anh và em đêm nay
không cô đơn
không dại lòng
như biển vắng
em dám nhận
cả quãng đời cay đắng
vĩnh viễn
trở về
đằm thắm
tình yêu…!
Phạm Khang
Ảnh
Ảnh động

LỜI ANH…

PHẠM KHANG
LỜI ANH…
Ảnh động
Em thân yêu!
Anh như kẻ theo em đến mù trời cuối đất…Đây rồi một bóng thân thương…thật mà như mơ mơ mà rất thật…Em cho anh một chút men say của ngày chưa đặt tuổi…của mắt liếc môi hồng xiêm y miên man nơi thịt da căng đầy hồn xuân không tuổi…Em thành non nước này…thành phong tình của lời ca tranh họa…như em vẫy gọi như em đắm say như em đùa bỡn như em giận hờn…để rơi mãi ..rơi mãi một câu hẹn thề mà anh không có mặt…
Anh lại gặp em nơi miền hoa này…Có thể miền hoa đã vì em mà đẹp đến thế…Những cánh hoa kiêu hãnh ngời lên trong nắng mới…xa xa là thảo nguyên cỏ xanh ngút ngàn vi vu gió thổi…Em đẹp…Em xinh…Em đích thị là chủ nhân lộng lẫy của cuộc sống này…Anh chỉ biết em là mảnh hồn anh dạt trôi được ngày nức nở hôn lên dịu dàng …
Anh sẽ ở lại với em…người con gái mà anh theo đến cuối đất cùng trời này…Ai rồi cũng phải chết…liệu có cái chết nào đẹp hơn cho tình yêu không nhỉ? Chắc là không! Và anh mãn nguyện ở lại với em, ở lại với miền hoa vô biên này, ở lại với tấm lòng em chân thật và tươi thắm bao dung…!
PK
Ảnh
Ảnh động

THƯ MÙA ĐÔNG

PHẠM KHANG
THƯ MÙA ĐÔNG
Ảnh động
Em thân yêu!
Anh bước vào hồn em mùa đông. Bỏ lại phía sau rêu phong của muôn ngàn xưa. Bỏ lại phía sau những hận thù cay đắng, những ngã đường số phận của kiếp người dạt trôi bể khổ. Anh hát một câu niệm lòng Kinh Thánh. Anh hát một câu của nhà Phật từ bi. Những con đường lạc đà, sa mạc, những đầu lâu xương trắng như buông xuôi như ngậm ngùi cho cái chí anh hùng chưa đã hận của bóng xưa tình xưa. Anh vẫn đi và không ngoái lại nhìn…phía trước là ánh sáng…phía trước là niềm tin để anh muốn sống…phía trước là em…là quê hương yêu dấu ngàn đời…là tình em thắm đỏ cơi trầu, bờ ao, ruộng lúa, câu hò điệu múa của hồn xưa không chết không quỳ…
Gió…
Rét…
Mây đen…
Bạc phơ cỏ dại…
Đó là khuôn mặt của mùa đông nhem nhuốc mùa đông úa tàn..mùa đông của thê lương mỗi khi lòng ta thiếu vắng tình yêu…
Nhưng có điều chắc chắn rằng, mọi giáo lý, mọi cường quyền, súng gươm và xiềng xích cũng không ngăn nổi bầu vú em mỗi ngày một đầy lên…môi em mỗi ngày thêm thắm hơn…và má đỏ…trời ơi má đỏ…sẽ là bài ca nồng nàn khôn tả nơi mùa đông giá băng…hệt như đó là hình ảnh của cái đẹp bất diệt và tỏa sáng…
Ôi mùa đông
Ôi em của anh
Ôi cái đẹp của thiên thần khiến bao người sống lại..
Như em luôn là ánh sáng cho mùa đông không cô đơn tàn úa…không ngậm lòng ly biệt…em ơi!
PK…
Ảnh

NGÀY NÀNG ĐI LẤY CHỒNG…

PHẠM KHANG
NGÀY NÀNG ĐI LẤY CHỒNG…
avatar
Ngày nàng đi lấy chồng
hàng dâm bụt lao xao nghiêng cánh rụng
ván bờ ao thảng thốt bàn chân
hoa chuối đỏ
đỏ như màu lửa cháy
bếp nhớ hồn nàng má lựng khói cay cay…
Ngày nàng đi lấy chồng
nhìn khắp lượt không thấy người xưa cũ
chỉ thấy chồng nàng xênh xang áo cưới
nụ cười trao như lạ như quen
Ngày nàng đi lấy chồng
mưa nguồn bịn rịn
nàng khóc chào lối ngõ
nàng khóc chào ngày xưa
khóc cho cả một vết tình ly biệt
mưa ướt vai trần
mưa nhòe hoa cưới
nàng vui cho hại họ vừa lòng…
Ngày nàng đi lấy chồng
biết là… đi xa mãi
người ơi
có nhớ để về không…!
PK…
Ảnh

LIỆU CÓ CÒN AI THƯƠNG NÀNG…

PHẠM KHANG
LIỆU CÓ CÒN AI THƯƠNG NÀNG…
Ảnh động
Chuyện tình của nàng
chắc có người đã quên
thì vẫn còn chàng Kim bời bời trăng muộn
thì vẫn còn giọt đàn không dây nào so được
cung thương
cung giận
cung hờn
tài hoa bế bồng nhan sắc
chim sa
cá lặn
liệu chàng Kim có còn nhớ tới nàng
bến hoang nào trở mặt nàng qua
ngày rơi sấp những cơn buồn nức nở
nàng có phải là câu thơ dang dở
một đời đem theo gửi vào gió cuốn
ngơ ngác
con đường tình không tuổi
heo may về nàng có thấy lạnh không…
Nàng ôm tình chàng Kim
nàng nuốt lệ cho chàng hạnh phúc
trách chàng Kim vô tình
trách Thúy Vân an phận
chỉ thấy sóng đen cuồn cuộn
đời bạc như viên ngọc nát
hẹn ngày Tiền Đường chôn sâu sóng cả
để trăng lại sáng bên trời
để nước lại sáng bên trời
và cỏ dại cũng thôi không khóc nữa
nàng ơi…!
PK…
Ảnh
Ảnh động


TẢN MẠN VỀ “GIAI ĐIỆU THÁNG NĂM” CỦA VŨ DUY HÒA

PHẠM KHANG
TẢN MẠN VỀ “GIAI ĐIỆU THÁNG NĂM” CỦA VŨ DUY HÒA
Hôm gặp anh Vũ Duy Hòa ở Hội thơ Nguyên tiêu thấy anh háo hức và như trẻ ra rất nhiều. Ấy là do cái tình thơ, cái duyên thơ đã gắn kết anh với công chúng qua hình ảnh bình dị và gần gủi nhất. Té ra, người ta ở đời đến với thơ trước hết là vì tình, vì nghĩa, vì những giao cảm muôn đời tuôn chảy nơi những trái tim nhiệt huyết. Mới đây, anh lại đưa cho tôi xem tập thơ của anh mới xuất bản “Giai điệu tháng năm”, chọn lọc nhiều bài anh viết rải rác trong một thời gian dài với nhiều cung bậc khác nhau. Đời sống lúc nào mà chẳng đa đoan, muôn mặt. Người làm thơ không thể tự mình đứng ngoài đời sống ấy. Không thể vô cảm và lại càng không thể vô trách nhiệm trước hiện thực đời sống với những biến động muôn mặt của nó.
“Giai điệu tháng năm” được dàn trải trên một không gian thời gian rộng lớn, ở đó tác giả hóa thân vào những trang nhật ký bằng thơ với cảm xúc và rung động thật trong sáng, thân thiện. Vũ Duy Hòa nhận ra đất nước là cái nôi bất tử để anh lớn lên, trưởng thành và phụng sự: “Đất nước của hát xoan, quan họ/ Của mái nhà, vọng cổ, ca dao”(Đất nước). Cái nôi ấy đương nhiên là hồn dân tộc, là truyền thống bất khuất, anh hùng của cha ông trong lịch sử dựng nước và giữ nước:
Em có về nghe trống đồng vang vọng
Cánh hạc bay lên bát ngát ruộng đồng
Từ Ngàn Nưa, Triệu Trinh Nương đuổi giặc
Đến Lam Sơn, Lê Lợi chống quân thù
(Em có về Thanh Hóa)
Người thơ khó tránh được cái phong tình gió bụi, cái giang hồ trước thiên cảnh của trần gian. Ấy là bởi người thơ phải say thì mới có thể thả thơ được. Thơ tự ép, tự đè ra để mà tìm câu tìm chữ phải chăng là phi thơ, là thơ đặt hàng, thơ đóng hộp? “Giai điệu tháng năm” cho thấy Vũ Duy Hòa không phải là người làm thơ như vậy. Thơ anh thật từ cảnh cho tới tình. Mà cái tình mới là cái khó cưỡng nhất, khó che đậy, rất dễ lộ ra thật giả. Non nước, quê hương luôn theo anh trong cuộc hành trình của cuộc đời, lúc thì “Một dải Ba Vì xanh ngát màu mây”, khi lại “Hoa phượng đỏ Tràng Tiền lộng gió-Hương Giang xanh thăm thẳm câu hò” (Chiều Huế).
Nhận ra “ Ba vì xanh ngát màu mây” là do thức cảm trong sáng mà ra vậy. Còn nghe được, ý thức được cái tình sâu lắng, mặn nồng của người xứ Huế thì phải đổ Hương Giang vào “Thăm thẳm câu hò”. Ý tình đều đạt, con chữ có hồn, không gò bó mà tự nhiên như non nước này, quê hương này đã khắc ghi cõi lòng nhân thế, nghĩa tình nhân thế vậy.
Qua “Giai điệu tháng năm” rất dễ nhận ra là Vũ Duy Hòa là người đi nhiều. Âu cũng phải thôi, chiến tranh và người lính, rồi những năm làm công chức, làm Đại biểu Quốc hội không đi sao được. Không gần dân, không đi thực tế sao có thể biết được dân cần gì, đói no, công ăn việc làm, ước nguyện của họ ra sao. Thế mới thấy đời người là dâu bể, là cái càn khôn của tạo hóa không chừa một ai. Xin gửi những Hà Bắc, Tản Viên, Ba Vì, Ba La Bông Đỏ, sông Mã, Hương Giang, Ngàn Phố, Bi Mốt, Tây Ninh, Miền Đông Nam Bộ…mối tình thâm khắc cốt ghi tâm của tác giả với lòng biết ơn và nỗi nhớ:
Năm tháng trôi qua mỗi mùa huấn luyện
Chúng tôi lớn lên theo nhịp quân hành
Thắm đượm nghĩa tình quân dân Hà Bắc
Dẫu xa rồi vẫn nhớ mãi u ơi!
Ngày ra đi, chiến trường chia nhiều ngả
Họ lên đường giữ trọn niềm tin
Lại gặp nhau giữa Miền Đông gian khổ
Bi Mốt, Tây Ninh…bom đạn tơi bời
(Thiên Thai ngày ấy)
Thơ của Vũ Duy Hòa nghiêng hẳn một mảng lớn viết về kỷ niệm chiến tranh và nghĩa tình đồng đội. Nhớ về họ thơ anh trào dâng sự cảm phục, ngưỡng mộ, tự hào:
Chúng tôi ra đi, Trường Sơn Đông nắng lửa
Trường Sơn Tây mưa lũ quét rừng già
Sốt rét rừng chống từng cơn bom đạn
Mà chiến trường phơi phới niềm tin
(Hoài niệm một thời quân ngũ)
Nhớ về đồng đội, thơ Vũ Duy Hòa ngân lên khúc giao cảm thao thiết, tiếc thương những người đã ngả xuống. Đó là một khúc đàn tình tri ân mà người ta sẽ cầm lòng mãi mãi cho dù cho hôm nay đã ở tuổi xế chiều:
Chiến tranh đã qua đi
Lùi sâu vào dĩ vãng
Chúng tôi cũng già nua
Mỗi người đi mỗi ngả
Chiến trường xưa, đồng đội gọi nhau về
(Trở lại Miền Đông)
Tinh thần ấy, dáng đứng Việt Nam ấy, một lần nữa lại được tác giả tái hiện sống động qua hình ảnh của những người lính ngày đêm canh giữ biển trời Trường Sa nơi tuyến đầu Tổ quốc:
Anh đứng đó nơi Trường Sa lộng gió
Canh đất trời cho đất nước bình yên
Cây phong ba qua bao mùa bão táp
Vẫn hiên ngang nơi đảo nhỏ kiên cường
(Gửi người lính đảo)
Tôi nhận thấy Vũ Duy Hòa biết nói được cả những điều tưởng như khô khan nhất, cứng nhắc nhất, cái điều mà nhiều người làm thơ thường hay né tránh: đó là trách nhiệm công dân và nghị trình đất nước. Nhiều người cho đó là việc của chính trị, việc của các nhà hành pháp và luật pháp, thơ chả dại gì mà liên quan. Đấy là lối suy nghĩ tùy tiện, thậm chí không đúng tí nào cả. Thơ không chối bỏ và trốn trách nhiệm phục thiện, chống cái ác. Nghĩ cho cùng ở thời đại nào thì thơ cũng là khuôn mặt tinh thần của thời đại đó, không có cái gì là xa lạ với nhà thơ cả. Vũ Duy Hòa tự nhận thức về trách nhiệm nặng nề của mình trong tư cách của một vị Đại biểu Quốc hội trước nhân dân, đất nước:
Chúng tôi do nhân dân bầu ra
Lắng nghe nguyện vọng của dân
Nói cho nhân dân hiểu
Làm cho dân theo, khó biết chừng nào
Chúng tôi đi sớm lại về khuya
Trăn trở cùng đói nghèo, gian khó
Phản ánh kịp thời tâm tư, ý nguyện
Từ khắp mọi miền: tiếng nói của nhân dân
(Đại biểu của nhân dân)
Làm người xưa nay là việc khó. Con người lại càng không phải là một thứ roobot được lập trình của văn minh công nghệ. Trái tim và những rung động của nó mới tạo nên con người đúng nghĩa. Vũ Duy Hòa cũng đã nhiều khi đi qua, va đập với sự đa cảm, những khúc tình và anh lắng nghe rất rõ những rung động ấy từ trái tim mình:
Ngày trở lại anh tìm về chốn cũ
Trời Ba Vì xanh ngắt một màu mây
Trên Tản Viên một dáng hình thấp thoáng
Vẫn như hờn, như dỗi với người xưa
(Duyên phận)
Chùm thơ về OSIC có nhiều trạng huống, cung bậc tình cảm da diết của nỗi nhớ và tình yêu. Người đọc rất dễ cảm thông và gần như có thể cùng với tác giả nhớ về cô gái này. Một cô gái chưa rõ họ tên nhưng chắc là dễ thương qua nét phác thảo dịu dàng của những câu thơ biết nói:
Thắp lửa cho nhau qua gian khó
Sống tốt hơn cho suốt cuộc đời
Nhớ không em một chiều xa ấy
Thư hồng mang nắng ấm về theo
(Nhận thư em từ Tokio)
“Giai điệu tháng năm” đậm đặc và tâm huyết những bài thơ tác giả dành riêng cho cha mẹ, ông bà, cháu con và thơ cho vợ. Gia đình là nơi neo đậu hồn thơ. Bội bạc với gia đình, dòng tộc người ta đâu có thể thành người. Mãi còn đây hình ảnh người mẹ hiền một nắng hai sương, tần tảo, áo bạc, lưng còng nuôi anh nên người:
Bố và con thay nhau đi chiến đấu
Hết nuôi con, mẹ lại chăm chồng
Bố đã đi trong đoàn quân Vệ quốc
Trấn thủ sờn vai qua khắp chiến trường
Đôi dép lốp trên đường dài kháng chiến
Kết vành hoa Điện Biên Phủ lẫy lừng
(Bố tôi)
Với vợ anh dành tất cả thương yêu và sự cảm thông sâu sắc nhất cho chị. Vợ anh cũng là
Ngày hôn lễ áo tôi cài miếng vá
Dăm lá trầu vài bao thuốc đơn sơ
Hai người lính thành vợ chồng từ đấy
Với ba lô con cóc gối đầu giường
(Vợ tôi)
“Giai điệu tháng năm” của Vũ Duy Hòa có cách nghĩ và cách cảm rất tự nhiên. Những bài thơ trong tập này chưa vươn tới độ sắc sảo, cách lập tứ, cách thả lời hiện đại nhưng bù lại nó cho ta ân huệ được thưởng thức một thứ thơ dung dị, thật thà, là bản sao lý lịch của tâm hồn tác giả. Thơ nếu đi được đến tận cùng của dung dị thì cũng là thơ hay đấy thôi. Hãy thật lòng với đời và với thơ. Có thể đấy là thông điệp mà người đọc dễ nhận ra qua tập thơ này.
Những câu thơ đẹp rồi sẽ chết. Chỉ có những câu thơ được viết bằng sự rung động chân thành, bằng máu, bằng hồn, bằng sự kết bạn với muôn phương sẽ sống mãi. Nghĩ về “Giai điệu tháng năm” là nghĩ về một người bạn đã biết sống hết mình một cách có trách nhiệm cho đời và cho thơ.
PK…

Ảnh
Ảnh

Thứ Năm, 23 tháng 11, 2017

LIỆU CÓ CÒN AI THƯƠNG NÀNG…

PHẠM KHANG
LIỆU CÓ CÒN AI THƯƠNG NÀNG…
Chuyện tình của nàng
chắc có người đã quên
thì vẫn còn chàng Kim bời bời trăng muộn
thì vẫn còn giọt đàn không dây nào so được
cung thương
cung giận
cung hờn
tài hoa bế bồng nhan sắc
chim sa
cá lặn
liệu chàng Kim có còn nhớ tới nàng
bến hoang nào trở mặt nàng qua
ngày rơi sấp những cơn buồn nức nở
nàng có phải là câu thơ dang dở
một đời đem theo gửi vào gió cuốn
ngơ ngác
con đường tình không tuổi
heo may về nàng có thấy lạnh không…
Nàng ôm tình chàng Kim
nàng nuốt lệ cho chàng hạnh phúc
trách chàng Kim vô tình
trách Thúy Vân an phận
chỉ thấy sóng đen cuồn cuộn
đời bạc như viên ngọc nát
hẹn ngày Tiền Đường chôn sâu sóng cả
để trăng lại sáng bên trời
để nước lại sáng bên trời
và cỏ dại cũng thôi không khóc nữa
nàng ơi…!
PK…
Ảnh
Ảnh


GỬI TÌNH CHO MÙA ĐÔNG…

PHẠM KHANG
GỬI TÌNH CHO MÙA ĐÔNG…
Ảnh động
Anh có niềm thương xin gửi em
Hoa ơi đừng thắm nhạt với người
Xinh cho cỏ úa tơ non lại
Xinh đến muôn sau cũng chẳng nhòa…

Ôi giấc sum vầy đông bớt lạnh
Em nguồn trong trẻo của mùa vui
Ngây thơ như lá vươn chồi biếc
Em thả hồn thơm gọi nắng về…!
PK…
Ảnh
Ảnh động


Thứ Ba, 21 tháng 11, 2017

CÂU THƠ MÀU ĐỎ…

PHẠM KHANG
CÂU THƠ MÀU ĐỎ…
Ảnh động
Em vẫn hát câu thơ màu đỏ ấy
Bến sông quê người đi mãi không về
Em vẫn hát như lòng không lụi tắt
Một tình yêu trong sáng tuổi ngây thơ…
Đại dương ơi người có nghe em gọi
Sóng vô tình nghiệt ngã quá mong manh
Người có thể hóa thành chim báo bão
Gọi vang trời phút ly biệt tình đau…
Em vẫn hát câu thơ màu đỏ ấy
Người có nghe người có nở nụ cười
Em hạnh phúc xin người đừng lo nữa
Ôi bóng tình trăng khuyết của ngày xưa…!
PK…
Ảnh
Ảnh động

NHỮNG TÌNH KHÚC MÙA ĐÔNG DẠT TRÔI…

PHẠM KHANG
NHỮNG TÌNH KHÚC MÙA ĐÔNG DẠT TRÔI…
Ảnh động
1…
Em xa
ta nhớ về em theo cánh chim di trú
về đâu
về đâu
chim ơi cho lòng ta hỏi
có nỗi niềm gì mà thao thiết thế
chim có mang theo kỷ niệm
những bâng khuâng bên đời
một áng mây hỗ phách
một cuộc tình phù vân
vẽ lên trời một ánh buồn cao cả
cho ta vui vầy trong tím tái đông sang…
2…
Em xa
mùa gối chăn hình như không thể
gối biết
tay anh không có mặt
chăn biết
lòng em không cồn cào
những dịu dàng của đêm có nhiều mộng mị
ma quái
quỷ sứ
em có còn là em trong cách xa…
3…
Em xa
khúc đàn như mắc nợ
nợ nốt hân hoan tình em nổi loạn
nợ nốt tình em ngây thơ
Và gió thổi dạt mùa phiêu lãng
Em có phải là hồn anh gào khóc đêm đêm…!
PK…
ẢnhẢnh động

MÙA HOA LẠC …

PHẠM KHANG
MÙA HOA LẠC …
 
Sắc như hoa lửa đơm đầy mắt
Em trêu thiên hạ chết tơi bời
Chao ôi khuôn sóng bao chìm đắm
Buồm hờn gió dỗi dạt về đâu…!
PK…
Ảnh
Ảnh động

AI XUI TA MIỀN MÊ ĐẮM

PHẠM KHANG
AI XUI TA MIỀN MÊ ĐẮM
Ảnh động
Lối nhạc
hững hờ
buông tán me xanh
cung bậc nhạt nhòa lẻ chiếc
đêm huyền bí như một vườn thiếu nữ
có cõi lòng nức nở bên phím đàn
run rẩy hoang trôi dạ khúc buồn…
đời người
ai chẳng một lần phải khóc
chuỗi đam mê lên men
vòi vĩnh đường cong tạo hóa
phút giao cảm của hồn không nói được
hóa tình đêm mồ côi…
có một người đi vào mưa bụi
ánh đèn đêm nhợt nhạt me xanh
nghe dạ khúc chợt thương đời đa cảm
nhấm nháp lời ru sao mà tha thiết thế
đêm cạn dần mòn vẹt đế giày đinh…!
PK…

Ảnh
Ảnh động

NHỮNG CẢM XÚC BAN MAI NHƯ LÒNG BIẾT ƠN EM VÀ CUỘC SỐNG

PHẠM KHANG
NHỮNG CẢM XÚC BAN MAI NHƯ LÒNG BIẾT ƠN EM VÀ CUỘC SỐNG
Ảnh động
Giữa sáng mai này, trong dòng người ngược xuôi hăm hở đi tìm những kỳ vọng mới, anh luôn tự hỏi có em không?
Sáng mai này, trăng đã tàn vữa màu son phấn, kẹo cao su tóp tép vui buồn, anh thức dậy sau ngàn năm ngái ngủ, thẩn thờ đi tìm dấu chân em trinh trắng bơ vơ…
Gót chân em hồng lên từ bùn đất, phèn chua đỉa bám, sâu rầy, bọ chét, đòng đong cân cấn…chiêm khê mùa thối rục đồng. Thế mà lạ. Hồn xinh mơn xinh mởn, nét yêu kiều run lá thẹn trăng, vang tiếng hát ái tình câu cò lả, một đời anh đánh dặm với khát thèm.
Mặt trời vô tư nóng, thổi nguồn sinh khí, xoa lên khuôn mặt của ai nức nở đêm dài, hạt gạo cây đa, bến nước, sân đình, lối xưa cũ ôm nỗi buồn rợn gáy.
Không thể chạy trốn lòng mình. Không thể chạy trốn thực tại. Vết sẹo thời gian chai lỳ nham nhở. Em sẽ viết tiếp lên đời anh trần trụi với áo may ô hoen ố theo mùa những câu thơ có cánh của thiên thần và sắc hương trinh nữ.
Không biết giữa sáng mai này
Em có mang theo bóng hình ai không?
PK…
Ảnh

Ảnh động

HÌNH NHƯ ANH NHỚ TỚI MỘT NGƯỜI…

HÌNH NHƯ ANH NHỚ TỚI MỘT NGƯỜI… Ánh ngày không còn rơi trên vòm lá những con chim cũng không còn thấy nô đùa hoa xấu hổ và hàng liễu rũ k...